Lời Giới Thiệu
Nhà văn Nguyễn Văn Sâm
lâu nay dùng nhiều thời giờ đọc các tác phẩm xưa của ông bà chúng ta
viết bằng chữ Nôm, đặc biệt là những tác phẩm chưa ai biết đến và các
tuồng hát bội cổ. Công việc ông làm rất âm thầm, các tác phẩm được phiên
âm xong cũng khá nhiều nhưng ông chưa muốn phổ biến vội vì vẫn chưa
hoàn toàn hài lòng với công việc mình. Phiên âm, theo ông, cần thiết
phải kèm theo một sự khảo sát về tác phẩm, chú thích cẩn thận, tạo lại
chữ Nôm trên máy điện toán toàn bộ bản văn để người bây giờ dễ đọc và
kiểm chứng lại sự phiên âm nhằm làm căn cứ cho những khảo sát về sau.
Một bản từ vựng chi tiết về chữ dùng cũng là điều ông muốn có trong mỗi
tác phẩm. Tôi cho rằng đó là lý tưởng của một công việc làm nghiêm túc,
nhưng tôi cũng nghĩ rằng chỉ riêng việc phiên âm giới thiệu những tác
phẩm chưa từng được phổ biến rộng rãi cũng đã là một công trình đáng
được lưu ý, các sự khảo sát nội dung, chú thích, làm từ vựng, chế bản
chữ Nôm... có thể để cho sau này người khác thực hiện. Bây giờ cứ lo
phiên âm trước đã.
Nhưng chọn quyển nào? Tuồng? Truyện thơ nỗi
tiếng hay truyện thơ bình dân? Tác phẩm dầy hay mỏng? Cuối cùng, theo
hoàn cảnh và khả năng của Viện Việt Học, nhà văn Nguyễn Văn Sâm đồng ý
cho trình làng quyển Tam Cố Mao Lư này. Bản Nôm rút từ ba hồi 37-39
trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa vốn có ảnh hưởng trong dân chúng Việt
Nam từ lâu, hồi 37 nói lên lòng tha thiết cầu hiền của Lưu Bị.
Có
thể người xưa khi viết hồi này đã gởi gắm ý muốn nói lên nỗi lòng của
mình với nhà vua đương thời rằng nhà nho thời đại bây giờ không được
trọng dụng đúng mức, nhà vua thiếu cái nhẫn, thiếu sự biết tài kẻ sĩ
hiền của người cầm vận nước. Người viết nào cũng thác gởi một điều gì đó
trong tác phẩm mình. Tác giả viết tuồng cũng không ra ngoài quy luật
đó. Tác phẩm vô danh, nhưng ta biết được thời đại xuất hiện vào thời các
vua đầu nhà Nguyễn càng cho ta tin rằng người viết không dám nói rõ
ràng những điều mình muốn nói.
Có thể trong tuồng Tam Cố Mao Lư
này nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong khi phiên âm đã đọc một vài-- rất ít---
từ khiến tạo nên sự tranh cãi sau này, nhưng mà khi chọn chữ nào ông
cũng đã suy nghĩ cẩn thận trên nhiều mặt, từ ngữ học đến ý nghĩa trong
toàn thể câu văn hay tính chất địa phương của tác phẩm. Tôi giúp đọc lại
sau cùng bản văn và gợi ý các vấn đề liên quan đến sự tìm hiểu bản văn,
nhưng sự giúp đỡ này, tình thiệt mà nói, cũng không nhiều gì lắm.
Bất
kỳ công việc gì liên quan đến sự tìm hiểu một tác phẩm của người xưa
đều là công việc rất đáng được khích lệ. Phiên âm lại là công việc cần
sự cẩn thận của người đã được đào tạo trong lãnh vực chuyên môn. Xin
trân trọng giới thiệu cùng chư độc giả, hi vọng trong tương lai chúng ta
có nhiều hơn những tác phẩm tương tự từ nhà văn Nguyễn Văn Sâm hay bất
kỳ học giả nào khác.
California, tháng 10/2001
Nguyễn Khắc
Kham
Dẫn
nhập
Tuồng Tam Cố Mao Lư mà quý vị đang cầm trên tay là một trong
bộ chín hồi của tuồng hát bội viết bằng chữ Nôm, lấy đề tài trong truyện
Tam Quốc, tức Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Nhóm tuồng này và hơn hai mươi
tuồng khác, đã từng được công bố bằng chữ quốc ngữ hay chưa, đều được
viết tay do học giả người Pháp chuyên về Việt Nam là A. Landes mướn
người chép sưu tập của ông khi ông phục vụ ở Việt Nam vào cuối thế kỷ
19. Bản này hiện lưu trữ tại Thư Viện Anh Quốc, Luân Đốn. Là bản chép
tay nên toàn thể số tuồng trong đó trở thành độc nhất, là kho tàng đáng
trân trọng đối với giới Việt học nói chung và người nghiên cứu về tuồng
hát bội hay văn chương Việt nam nói riêng. Trong sưu tập này, các tuồng
đã được phổ biến nhiều từ trước như Sơn Hậu, Kim Thạch Kỳ Duyên.. thì
không cần thiết lắm để được phiên âm giới thiệu lần nữa trong lúc ta
chưa có phương tiện dồi dào, nhưng đối với các tuồng chưa từng được
phiên âm thì việc giới thiệu dưới dạng chữ quốc ngữ quả là điều đáng
thực hiện. Khóm 9 hồi của tuồng Tam Quốc trong số đó. Chúng tôi giới
thiệu trước Tam Cố Mao Lư vì có thể lần lượt giới thiệu từng hồi mỏng,
việc in ấn và chú thích vì vậy tương đối không mất bao nhiêu thời giờ.
Cũng không cần phải giới thiệu một lúc nguyên nhóm chín hồi của sưu tập.
Chúng
tôi sao được là tuồng này qua nhiều trung gian từ bản được tặng Chánh
Phủ Anh quốc tặng cho Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa của Quốc Vụ
Khanh Mai Thọ Truyền vào năm 1971, tạm gọi bản này về mặt vật chất là
bản QVK vì nội dung nó là bản A. Landes hay là bản TVAQ. Sao qua sao lại
nhiều lần nên bản chúng tôi có được bị mờ nhòe nhiều chỗ. Mờ nhòe một
vài chữ còn
có thể tái tạo, mờ nhoè nhiều chữ nhiều trang thì không
làm sao đọc được.
Chúng tôi đã nhiều lần đến tận nơi lưu trữ bản
QVK tại Thư Viện Quốc Gia cũ nhưng không lần nào được phép sờ đến bản
sao lại để tham khảo hiện chứa trong phòng gọi là 'tham khảo hạn chế'
nói gì đến bản QVK. Mua lại một bản sao từ Thư Viện Anh Quốc cũng không
phải là chuyện dễ dàng. Do đó chúng tôi đành sử dụng những gì mình đang
có. Sự đánh máy lại trên máy điện toán toàn bộ các tuồng này là việc nên
làm. Việc phiên âm toàn bộ các tuồng này càng cấp thiết hơn. Từ khi học
giới có được bản QVK đến nay đã trên 30 năm nhưng chưa ai công bố tuồng
nào trong bộ sưu tập này. Có thể có nhiều vị thông thạo Hán Nôm đã âm
thầm phiên âm, nghiên cứu nhiều về bộ sưu tập này nhưng chưa có phương
tiện công bố hay chưa muốn công bố. Nay Viện Việt Học có nhã ý cho in
bản phiên âm do chúng tôi thực hiện, đó là điều đáng mừng cho người
phiên âm vì sẽ được thấy cụ thể kết quả sự làm việc của mình, một công
việc như là hành động nhốt gió, không bao giờ thấy kết quả!
*
Tam Cố Mao Lư là một lớp gồm năm
hồi, trong đó có hồi Tam Cố Thảo Lư, một hồi trong truyện Tàu có tựa là
Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa --- cũng như tuồng Tiết Đinh San Cầu Phàn Lê Huê
là một hồi trong truyện Tiết Đinh San Chinh Tây --- được khai thác
nhiều về dạng tuồng hát bội cũng như tuồng cải lương vì tánh chất dễ
diễn của nó, tính chất võ: những tình tiết dễ diễn đã đành, văn chương
lại không khó khăn cao kỳ khiến dân chúng khán giả bình dân khó lòng
lãnh hội, và kết cục thường có hậu, và nhất là trong tuồng có nhiều màn
đánh nhau để khán giả được xem các tướng với những đao thương mũ mão,
múa gươm đá giáp xông trận trừ gian diệt bạo. Các tuồng Lôi Phong Tháp,
Tứ Linh, Trần Trá Hôn, Sơn Hậu, Nhạc Hoa Linh... thuộc loại này. Tính
chất võ nhằm tạo nên sự hào hứng tức thời về mặt tình cảm và nhãn quan
cho người xem, một số đông thính chúng mà trình độ văn học và ngôn ngữ
trường ốc thật giới hạn. Nói cách khác sự lĩnh hội về nghệ thuật thật
giới hạn, họ không cần đi sâu vào tình tiết, sự hay dở của từng câu nói,
từng lời hát, họ thưởng thức bằng sự nắm bắt lấy toàn thể câu chuyện.
Họ vui cười hể hả với những sự bị đày đọa khó khăn mà ngoài đời không
có, như tam cố, quỳ trước thảo thất, tam bộ nhứt bái... Họ thích thú về
những phát tiết từ sự nóng tánh của Trương Phi, thoải mái với những lời
khổ công năn nỉ ỉ ôi của Tiết Đinh San, Tiết Nhơn Quý đối với người ngọc
của những tướng này. Ngược với tuồng võ là tuồng văn, rất ít khi được
trình diễn vì không hội được những điều kiện trên. Rất nhiều hồi khác
trong bộ truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa bản, toàn bộ tuồng viết ra từ
Tây Du Ký, tuồng Vạn Bửu Trình Tường, tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, tuồng
Kim Vân Kiều, tuồng Lục Vân Tiên... ở trong loại liệt kê này. Tuồng văn
chỉ được diễn bởi nhóm nhà nghề thật siêu đẳng hay diễn ở trong nội cho
vua chúa xem mà thôi. Chúng tôi được mách rằng trước đây độ tám mươi
năm, khoảng 1920 ở Huế, chỗ Chợ Dinh, gần Gia Hội có đoàn hát bội Thanh
Bình chuyên diễn cho vua xem, diễn viên như công chức
của triều đình,
ngoài giờ diễn, thực tập tuồng đã đành, họ còn luyện võ nữa. Gánh này
chỉ chuyên diễn cho vua và các cung tần mỹ nữ coi. Các tuồng diễn trong
nội đều thật dài, theo sát truyện Tàu, có tuồng cả trăm hồi như Tây Du,
Tam Quốc, có tuồng cũng vài chục hồi như Vạn Bửu Trình Tường, Đường
Chinh Đông, Đường Chinh Tây... Ở đây người diễn cũng như người xem có đủ
những yếu tố để thưởng thức những gì sâu ẩn mà tác giả vở tuồng muốn ký
gởi. Rất nhiều khi đó là chuyện tình yêu, tâm tư, lòng ái quốc, sự hận
thù... là những điều thuộc về cảm tính ít thấy được trên sân khấu về mặt
diễn vốn là điều đòi hỏi của những người đầu tắt mặt tối cho miếng cơm
manh áo, cần món ăn văn nghệ nhưng phải là thứ dễ nuốt trôi, ăn liền.
Cũng vì vậy các tuồng võ được nhiều người biết và văn bản của bổn tuồng
chẳng những được bảo tồn mà có khi còn
hiện diện bằng nhiều thoại
khác nhau do sự chỉnh lý của thầy tuồng hay sửa đổi nho nhỏ của diễn
viên. Tuồng văn ít được trình diễn càng ngày càng mai một, ít người biết
đến, và nếu ai còn may mắn gìn giữ được văn bản thì cũng chỉ lõm bõm
chớ không mấy khi đầy đủ trọn bộ một tuồng dài. Thỉnh thoảng nếu gánh
Thanh Thanh nói trên diễn cho công chúng xem thì các hồi được chọn, như
đã nói, thường có tính chất võ và đã được cải biên lại hạ thấp mặt điển
cố và giới hạn số lượng từ Hán Việt. Tuồng bấy giờ được rút ngắn lại
nhiều. Phần loạn (hát khách), bạch (nói chí khí), thán (than thở) vốn
viết thuần bằng thơ Hán Việt đã được giản lược đến tối thiểu, phần hài
và vãn (hát Nam) đa phần được tăng bổ.
*
Chúng tôi không thấy rằng tuồng Tam Cố Mao Lư này là
một tuyệt tác văn học hay là một viên ngọc quý của bộ môn trình diễn để
chúng ta khổ công khảo sát, tôi chỉ thấy rằng đó là một di chỉ văn hóa
về hoạt động của ông bà mình ngày trước mà mình cần biết. Ngày xưa người
biết chữ thuờng thưởng thức các truyện từ Trung Hoa sang. Đó là điều
không trách được vì đó là con đường văn hóa đến với đất nước chúng ta có
thể nói là duy nhất. Đọc một mình họ không vừa ý, họ muốn chuyển những
điều hay ho thích thú mà mình thu lượm được cho đám đông chung quanh. Họ
có nhu cầu kể lại vốn là điều kiện đầu tiên của người sáng tác. Ngay ở
thế kỷ 18 sự chuyển ý ra bằng văn xuôi cũng chưa có thể gọi là có,
trường hợp Tân Biên Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Thế Nghi trước đó khá
lâu là sự ngoại lệ gần như duy nhứt. Thế kỷ 17-18 phương thức diễn đạt
duy nhất cho số đông là hát bội, chèo chưa xuất hiện, nhà nho bèn đem
truyện Tàu viết lại dưới dạng này. Người lưu dân từ Miền Trung trên
đường Nam tiến, đến định cư vùng đất mới của Nam Kỳ chấp nhận dễ dàng
hình thức mua vui cho mình là tuồng, khoái nhứt là tuồng võ. Đi coi một
buổi trình diễn tuồng, họ được thưởng thức cùng nhau, có bạn có bè, có
dịp gặp gỡ gái trai hay người lối xóm. Họ có dịp ra ngoài, đi đến nơi tụ
họp đông đảo, thưởng thức món ăn tinh thần mà không cần trang bị trước
bằng những năm dài ngồi trong trường ốc mày mò những chữ chi hồ dã giả.
Họ lại thỏa mãn được thị quan vốn không có đối với người đọc sách thui
thủi một mình. Sự phát rộ của tuồng ở thế kỷ 19 là vậy. Thế kỷ này là
thế kỷ của tuồng. Một vài tác phẩm văn xuôi, dầu tuyệt tác như Đoạn
Trường Tân Thanh hoặc khá hay như Nhị Độ Mai, Phan Trần... một vài nhà
văn của thời này để lại thi tập này kia không thấm tháp vào đâu so với
kho tàng rộng lớn của tuồng.
Ngày nay tuồng đã mất đi bộ áo
hoàng tử của mình là sân khấu, mất sự trình diễn của diễn viên cũng như
của âm nhạc và cả không khi vui tươi rộn ràng bao quanh buổi trình diễn.
Tuồng chỉ còn lại thuần chữ trên văn bản, giống như con công mất đi bộ
lông rực rỡ màu sắc. Giá trị của tuồng bị giảm đến mức tối thiểu.
Ta
chỉ còn
(a) nhìn cách sử dụng
từ trong tuồng để mà biết cách nói của người xưa như thế nào.
(b) khảo sát các hồi, cảnh, phân đoạn để
thấy sự cấu trúc tuồng hay dở thế nào.
(c) xét hành vi và tâm tư của nhân vật để
nhìn lại tư tưởng của người xưa.
Đại cương tuồng có nhiều
giá trị về sử dụng nhuần nhuyễn và thông thạo kho tàng ngôn ngữ của dân
tộc, đó là chưa kể về sự phổ biến rất hiệu quả các khái niệm tam cương
ngũ thường bằng những hành vi sống động của nhân vật.
Đọc nhiều
tuồng, ta có thể đi đến kết luận mà không sợ sai lầm rằng tuồng hát bội
là tiền thân đồng thời của hai thể loại khác nhau là cải lương và tiểu
thuyết văn xuôi. Cải lương lấy từ tuồng sự cấu trúc của phân cảnh, những
bài ca bài hát xen với đối thoại dầu cho nhân vật ở vào tình huống bi
đát như biệt ly, lao lý, bệnh tật, tử thương.... Cải lương là kịch bản
viết theo hoàn cảnh mới của tuồng với những thể điệu ca lý mới, dàn dựng
mới và loại bỏ câu Hán Việt trong đối thoại. Cải lương còn giữ lại sự
dài dòng, sự diễn tả sự kiện bằng lời và sáo ngữ của tuồng như là nhũng
yếu tố ăn khách cần phải có. Y trang lộng lẫy của cải lương cũng là hình
thức khác của xiêm y triều đình văn thần võ tướng của hát bội.
Tiểu
thuyết --- hay nói rõ hơn là văn xuôi --- đã được trui rèn trong lời
nói lối của tuồng nên khi hình thành nó chưa hóa thân hết, còn sót lại
biết bao nhiêu từ Hán Việt và sự đối xứng, biền ngẫu điển tích chúng ta
thầy được ở những nhà văn miền Bắc đầu thế kỷ. Sự sáo trong văn xuôi
không ở chỗ nói nhiều như tuồng cải lương mà sáo trong sự sính dùng điển
tích, cách nói cao kỳ, nhiều khi trở thành rườm rà nhiều lời vốn là
điều được chấp nhận với sự hoan hỉ của khán giả hát bội nhưng lại không
được độc giả văn xuôi chấp nhận.
Rồi với thời gian, hai thể loại
mới sanh đó dần dần trưởng thành, một cung ứng cho số đông bình dân, một
thoả mãn sự thưởng thức một mình của người có văn học thích ngồi bên
quyển sách, tuồng hát bội ở ngay những năm ba mươi của thế kỷ 20 đã trên
đà mất lần ảnh hưởng, thoái hóa và trở nên lạc hậu với bước tiến triển
của xã hội cho đến ngày bị xô đẩy vào vùng hẻo lánh sanh sống quanh các
đình và những đám kỳ yên. Người nghệ nhân mới đa phần không thuộc tuồng
vì không hiểu rõ những gì mình sắp diễn, sắp nói. Hát bội chết dần như
thứ cây khô trước sự phát triển của xã hội đô thị và ảnh hưởng của văn
hóa Tây phương. Vài cố gắng gần đây ở quê nhà của những người tha thiết
với bộ môn này, đặc biệt là người nghệ sĩ tài danh nhiều kiến thức hát
bội Đinh Bằng Phi, hy vọng vực dậy con bệnh hát bội đang trong tình
trạng hôn mê bằng những cải biến đến tận căn để là chọn tuồng tích lịch
sử Việt Nam, khai thác đề tài hiện đại, triệt để loại bỏ đến tận cùng
những thể loại hát, nói dùng toàn chữ Hán Việt... cũng không thấy chút
gì gọi là sáng sủa. Hát bội ngay trên vùng đất ngày xưa nó tung tăng
vùng vẫy, bây giờ trở nên le lói như ngọn đèn sắp tắt, chỉ sống nhờ sự
trợ giúp ít oi của một chế độ không lưu ý nhiều đến văn hóa.
Ngày
nay ta khảo sát tuồng để hy vọng đi lần đến chỗ vẽ lại một mặt nào đó
của đời sống tinh thần, sự giải trí của người Việt xưa. Ta chắp vá những
gì còn lại từ xưa với lòng trân tàng những tín hiệu văn hóa của người
đi trước. Công việc thật có nhiều khó khăn, cần phải có sự giúp sức của
nhiều người với những kiến thức khác nhau và ngành nghề khác nhau. Con
đường thật dài, đầy khúc quanh và bẩy rập...
Nguyễn Văn Sâm
Phiên
âm
[Quan Công](t1) nói:
Dám bẩm đại ca:
Đại ca dốc dày sương đạp tuyết. Nhị đệ nguyền lặn suối trèo non. Thời
có phải a, trảm hắc ngưu thề nọ còn ghi, tru bạch mã nguyền kia hỡi tạc.
Chẳng như tôi: Chi rời nửa khắc, chẳng bỏ một giờ. Trên ca ca dầu dãi
nắng mưa, dưới nhị đệ dễ từ sương tuyết a!
Trương Phi:
Dạ dám
bẩm ca ca: Đông dầu trừ bắc dầu diệt là chi cho khỏi tay Phi, đánh thành
nọ phá lũy kia ai dám đương cùng Dực Đức a! Bẩm ca ca: Nói nói rằng
Khổng Minh đã nên tài tá quốc, vốn người đà đáng (t2) mặt làm tôi. Phải
a! Vậy thời: Tân Dã thành huynh trưởng hỡi ngồi, em tới bắt Khổng Minh
về nạp cho nè!
Lưu Bị:
Tam đệ quen tánh nóng, buông lời nói
mặn nồng thời có phải a! Ba phen đều chẳng gặp hiền nhân, anh cũng
nguyện lên cầu cho đặng. Sách xưa còn để dạy, nay ta phải ân cần. Nhị
đệ, Thôi! Chớ nại sức hai em. Giang Nam quận trông chừng bắc mặt hè!
hát
nam:
Giang Quận trông chừng bắc
mặt,
Dốc cầu hiền tá quốc an bang.
Ngày nào đem lại trùng quang.
Lưu
triều vững đặt Hán bang (t3) thâu về.
Ngọa Long kia đã gần kề.
Truyền
quân tạm nghỉ ta huề dừng chân.
***
Điền phu:
Đời thạnh trị an
cư lạc nghiệp, thời thái bình Nguyễn chúa ra làm . Chuyên một việc nông
tang, Điền Phu là tên lão. Như tôi! Thuở đông thiên vũ thuận phong điều,
sang thu tiết cày bừa giá sắc.
tán:
Số là thuở lão lên Giang
Nam quận, lão thấy ông Khổng Minh có làm một bài thơ chi chi đấy ư.
ca:
Thân này thong thả chốn Giang Nam,
Phú
quý công danh chí chẳng tham.
Thảo lư xịch xạc ngày ba bữa,
Chờ
cho gặp chúa mới ra làm (t4)
***
Lưu Bị:
Dòng truyền Hán thất, ngã hiệu Lưu
Huyền. Nghe tiên sanh dật sĩ Giang Nam, tôi xin rước về thành Tân Dã
nào!
Điền phu:
Chúa công lầm đã quả, tôi vốn thiệt điền phu.
Như tôi: Chuyên một việc làm mùa, biết đâu nghề đánh giặc.
Lưu
Bị:
Điền phu ta hỏi: Ngươi phân ngươi nữa là người điền phu, ấy mần
răng mà ngươi ca đặng bài thơ ấy?
Điền phu:
Dám bẩm chúa công:
Thuở trước tôi tới đó, làm mùa mái Giang Nam. Thấy ông Khổng Minh miệng
đọc tay làm, dán lên đó tôi bèn học đặng.(t5)
Lưu Bị:
Thiện
a! Thời: Nghe đó nói đây đà nghiệm tỏ, dường như vén ngút thấy trời
xanh. Quân! Truyền quân nhân khẩn cấp thừa hành, Giang Nam quận nhặt
giong vó ký.
hát nam:
Giang
Quận nhặt giong vó ký
Rước người hiền tá trị Lưu gia
Đoái
nhìn sắc sảo cỏ hoa
Lá in màu lục ngửa mà hứng sương.
***
Đức Tháo:
Như tôi! Vốn
dòng truyền học sĩ, tôi Đức Tháo là tên. Xem thấy đời Tam quốc chiến
tranh, bui Lưu Bị lập an cơ nghiệp.
Lưu Bị:
Nghiêng mình làm
lễ (t6), tôi hiệu Lưu Huyền. Nghe tôn sư dật sĩ Giang Nam, tôi xin rước
về thành Tân Dã.
Đức Tháo:
Nếu vậy: Chúa công lầm đã quả, tôi
Đức Tháo là tên. Bạn học với Khổng Minh, chẳng phải Gia Cát Lượng. Chẳng
qua là tôi thấy chưng đời bát loạn, nên tỏ [nỗi] thủy chung. Thời có
phải a! Lưu Quý xưa điềm ứng trạch trung, trảm xà mới ra đời thạnh trị.
Từ qua Đông Hán kỷ, Vương Mãng mới tiếm ngôi. Bao giờ hết vận suy, thời
chúa công mới thạnh.
Lưu Bị:
Tiên sinh tua an nghỉ (t7) đặng
tôi tới Giang Nam. Quân! Truyền quân nhân loan giá nghiêm bày. Y ngã
lịnh trông chừng Nam Quận.
hát nam:
Nam Quận mau chân khoan khoái.
Trải lộ
đồ nào nại thân ta.
Miễn cho gặp kẻ hiền lương.
Lưu triều vững đặt
Hán gia lâu dài.
***
Khổng
Minh:
Như ta! Bầu thế giới vai mang, quán càn khôn tay xách. Kim
Ngọa Long Cương lãnh, ta biểu tự Khổng Minh. Thấy chưng đời Tam quốc
chiến tranh, ta cũng muốn ra tay đánh dẹp. Nhưng mà: Gái tốt nỡ đành gả
ép, ngọc lành há dễ (tờ 8) bán rao này! Mảng luận bàn quân tới lao-xao,
thấy Lưu chúa tướng quân bày biện. Nọ Vạn Quân bảo đây! Ấy! Vạn Quân em
gìn giữ thảo lư, dầu người có hỏi anh nữa, thời: Em nói chơi nhà bạn,
coi người nói lẽ nào. Thử lòng kia cho hản. Như sự dầu hết ý, ta sẽ giúp
cơ mưu. Chi nữa! Mặt chỉ dặm sơn đầu, kẻo quân nhân nối gót.
Lưu
Bị:
Đoái thấy chim kêu vượt hót, chợt nhìn hạc múa thông reo. Kìa
Khổng Minh còn ở trên lầu, âu là ta bước tới quỳ nơi các hạ. lại nói:
(t.9) Dạ! Hán gia tôn thất, danh gọi Lưu Huyền. Nghe tiên sinh dật sĩ
Nam Giang, tôi xin rước về thành Tân Dã.
Cát Quân:
Dạ dám bẩm
chúa công: Anh tôi đã du sơn du thủy, tôi là em giữ cửa giữ nhà. Năm ba
ngày vắng mặt phương xa, bảy tám bữa về nhà giáo sĩ. Tôi vốn thiệt liên
chi đồng khí. Gia Cát Quân vốn thiệt tên tôi. Thưa người tỏ khúc nôi,
anh tôi là Gia Cát Lượng.
Trương Phi:
Thôi! Ghe phen phiền
lòng tướng, nhiều thuở mỏi dạ quân! Họa (t.10) không tài tế thế trị dân,
bởi vậy cho nên thấy ta tới dời chân lánh mặt đó mà thôi! Dạ dạ dám bẩm
ca ca! Xin đem quân vào bắt, cầm Gia Cát chẳng tha. Đặng tiến nộp đại
ca, rồi sẽ dời loan giá.
Lưu Bị:
Tam đệ đừng có nóng nảy, để
anh phân lại cho mà nghe. Tôi hiền là báu nước, còn con thảo thiệt phước
nhà. Non vàng tìm ngọc dễ ra, cầu sĩ cầu hiền phải vậy. Thời! Đã nhiều
phen xe đẩy, đi rước chẳng đặng thầy. Cát Quân! Phiền Cát Quân nghiên
bút đem đây, đặng ta tả thư kia gởi lại. Đã nhiều phen lên rước, (t.11)
mà chẳng đặng tiên sinh. Gia Cát Quân còn ở lều tranh, đặng cho mỗ trở
về Tân Dã.
***
Cát
Quân:
Thưa! Từ anh ra khỏi cửa, có Lưu sứ tới nhà. Người nói rằng
thỉnh anh về mưu quốc mưu gia, em rằng đã du sơn du thủy. Hữu tâm thơ
cẩn ký, phiền tôi giao lại cho anh. Dám thưa anh! Người đã nên chỉ tín
chỉ thành, lại đáng mặt cầm quyền thiên hạ!
Khổng Minh:
Ta dốc
lòng thử gã, gã có dạ vì ta. Âu là, tâm thư này ta kíp xem qua, cho
(t12) hãn lẽ tường trong ý chỉ a!
thư:
Mỗ tánh xưng Lưu Bị, thư ký thỉnh tiên
sinh. Bốn phương dân lầm chốn đao binh, tám hướng chúng mắc nơi nước
lửa. Xin giúp sức cứu dân thủy hỏa, ngõ ra tài tá quốc an bang.
lại
nói:
Hảo a! Xem qua đà hãn ý, mới liểu đắc tâm tình. Ta là sĩ mai
danh, người biết tài phụ quốc. Thời ta: Đã toan rồi chung thủy, đà phải
vận làm tôi. Tiểu đồng! Thầy vào nhắp trướng mai, tiểu đồng lui môn
ngoại.
***
Lưu Bị:
Quân!
Lịnh truyền (t.13) tiến mã, tua chỉnh loan xa. Đồng tựu tại trang gia,
rước người hiền tá quốc. Chư công! Ậy, nghe ta dặn: Trước nghiêm bày lễ
vật, sau bố liệt can qua. Mặt trông chừng chỉ dặm sơn đầu, đặng ta tới
thảo lư nghinh tiếp.
hát nam:
Ta tới thảo lư nghinh tiếp,
Biết bao giờ đặng hiệp
hiền lương.
Muốn cho sửa trị bốn phương,
Nối theo
Thang Võ tuyết sương mới thành.
Căm hờn Ngụy quốc tương tranh,
Hiềm
thay Ngô địa hoành hành chẳng an.
Xa xem đã khỏi sơn trang,
Phút
đâu lố thấy Giang Nam hầu gần.
lại nói:
(t.14) Tiểu
đồng! Cậy tiểu đồng trình với tiên sinh, rằng có Lưu sứ thỉnh lai tương
kiến.
Tiểu đồng:
Dạ dám bẩm chúa công! Thầy còn an giấc điệp,
tôi chẳng dám vào thưa. Chừ thôi thời: Xin Chúa công quỳ trước thảo lư,
chờ tỉnh giấc sẽ vào thưa lại.
Lưu Bị:
Nhị đệ, tam đệ! Giờ
thời ta phải nghe theo lời gã, ta đều quỳ trước giai tiền.
lại nói:
Hán
triều tôn thất, danh gọi Lưu Huyền. Nghe tiên sinh dật sĩ Giang Nam,
tôi xin rước về thành Tân Dã.
Trương Phi:
(t.15) Thời! Ngoài
còn dầm sương tuyết, trong bao nỡ chẳng vì. Nếu vậy thời, quả không tài
tế hiểm trợ nguy, cho nên mới ẩn thân tàng tị. Chuyển lôi đình chi nộ,
phấn tích lịch chi uy. Âu là: Kíp lấy lửa mau mau, tốc Dực thiêu lư
thảo.
Lưu Bị:
Ứ hự! Tam đệ quen tánh nóng, buông lời nói dọc
ngang. Nói thiệt: Nếu mà ngươi đốt thửa nhà kia, ắt nhà gã đầu lìa nơi
thử xứ.
Tiểu đồng:
Dạ! Lưu sứ đã tới nơi thảo thất, dạy tôi
vào trình quá tôn sư. (t.16)
Khổng Minh:
Thỉnh nhập! Thưa!
Hoang mang lễ tiếp, cung thỉnh sứ quân.
Lưu Bị:
Diện thượng
long mi phụng nhãn, hình dung nho nhã phong tư. Xin nhậm chức quân sư,
hồi thành trung phụ quốc.
Khổng Minh:
Thưa! Chúa công đã lựa
mặt, tôi đâu dám chối từ. Giờ thôi thời: Sấp lưng từ giã thảo lư, bắc
mặt trông chừng thành phụng.
Lưu Bị:
Hảo a! Quân sư đà an dạ,
ta khôn xiết mừng lòng. Thiên niên khắc cốt nan vong, vạn cổ minh tâm
(t.17) bất phụ đi mà thôi!
Quan Công, Trương Phi:
Phỉ bấy tôi
hiền giúp nước, toại thay tướng ngõ an bang. Quân! Truyền quân nhân loan
giá sẵn sàng, đồng cử bộ hồi thành giải giáp.
Bốn người cùng hát
khách:
Huề thủ đồng hành tẩu như
phi.
Bôn ba kinh địa mạc khu trì.
Thiên kim vị
trọng, giao tình trọng.
Vạn tải tinh di, chí bất di.
Lưu
Bị:
Đây đã tới Dã thành, truyền chúng tướng loan xa yển tức.
lại
nói:
Phỉ bấy đặng người tá quốc, mừng thay Hán thất hữu nhơn. Lời
phán trước bệ đơn, phong Quân sư chi chức, phiền cùng trợ lực, điều
khiển binh nhung. Ta trở lại cung trung, bá quan hồi công phủ.
***
Tào Tháo:
Như ta: Suất hổ
lữ nhứt thân chinh chiến, thống hùng sư vạn đội thiên viên. Lực cường
lược hổ thao long, ngô nãi danh xưng Mạnh Đức. Văn thần dường phụng vũ,
võ tướng tựa bằng phi. Hoàng gia xem bằng dạ bằng lòng, chư tướng nhắm
như tâm như phúc. Ơ này! Nghe hiệu quân phi báo, Lưu Huyền (t.19) đà tức
vị Dã thành. Sứ quân còn ngụ đất Kinh Châu, nên ta phải chiêu binh mãi
mã. Bây giờ đà thong thả, lại súc tích binh lương. Gã có chí bốn phương,
còn ta dốc thâu một mối.
Hầu Đôn:
Dạ! Thời, Lưu Bị thiệt là
thằng đóng dép, Huyền Đức [vốn] một đứa bán giày. Có đâu trời lại thêm
vây, dám bẩm lại, cho dẫu có thiệt đi nữa, thời cũng chẳng khác phụ tân
nhi cứu hỏa. Phen này: Nguyện hết sức lấy thành Tân Dã, quyết ra tài tận
sát Lưu gia. Thề phấn động can qua, kẻo yếm tài yến hạc. Nguyện phi
thiết giáp, (t.20) lãnh ấn tiên phong. Sanh cầm Gia Cát, Lưu Huyền,
nhược bất đắc nạp Hầu Đôn thủ cho này.
Tào Tháo:
Hảo a! Thị
thần long diệu diệu, chân hổ tướng hoàn hoàn. Vậy mới phải tôi Tào, quả
anh hùng bạt tụy. Hầu hữu nhứt tâm tá quốc, Ngụy quyền phong Đô Đốc ấn
ban. Phó hổ lữ ba ngàn, suất hùng binh vạn đội.
Hầu Đôn:
Thệ
dương ngô thần lực, nguyện diệt đảng Ô Sào.
***
Lưu Bị:
Rày đà nhàn hạ, thêm
đặng người hiền. Tôi chúa mới phỉ duyên, (t.21) quân thần giai hội ngộ.
Quân
báo:
Dạ! Cấp dã cấp dã, nguy tai nguy tai! Hạ Hầu Đôn binh tiến chỉ
huy, xem đội ngũ tinh kỳ lẫm liệt.
Lưu Bị:
Nay Tào Tháo hưng
binh khởi ngụy, sai Hầu Đôn chiếm đoạt Dã thành. Xin quân sư quyết sách
vận trù, luận hà kế tương binh cự chiến nào!
Khổng Minh:
Chúa
công đà chỉ phán, tôi đâu dám từ lao. Nếu xuất binh binh bại sao nên,
bằng khiển tướng tướng hoàn nghịch mệnh.
Lưu Bị:
(t.22) Chức
quân sư đã định, quyền Thượng Phụ nấy trao. Hay còn khuất thửa tiếng
nào, xin quân sư phân lại thử nào!
Khổng Minh:
Dám bẩm chúa
công! Chúa công đà chức nấy quân sư, thời tôi phải giữ quyền Thượng Phụ.
Giờ thời phải mần ri mới đặng: Xin ban ấn hổ, điều khiển một tay. Đặng
mà: Rao chư tướng đều hay, cứ tuân y pháp luật thời mới đặng cho!
Lưu
Bị:
Lời quân sư phân lại, mới liểu đắc cơ quan. Kiếm ấn nọ nấy ban,
điều khiển một tay cử chỉ. Lịnh truyền triều sĩ, vâng thửa lời ta.
(t.23) Nghi chỉnh túc loan xa, ngõ đăng đàn bái tướng.
Khổng
Minh:
Trương Phi không phải tớ, còn ta chưa có phải mặt làm thầy. Lập
trận đồ ngươi phá đặng xong, thời ta nộp chức về non chẳng ở.
Trương
Phi:
Đã rằng làm vậy, lời nói chẳng quên. Phân phó có bá quan. Xà
mâu nguyền phá tan bốn phía.
Khổng Minh:
Hạ lịnh truyền quân
sĩ, xuất trận bố tứ phương. Nghe ta dặn, bát hướng mạc ngôn, tam quân
hổn chiến. Nhược hà nhân sai thiển, trảm thủ huyền đầu. (t.24) Y lịnh cổ
hồi, tam quân thượng trận.
Trương Phi:
Khâm thừa huynh
trưởng, phụng lệnh quân sư. Hoang mang phấn lực đề thương, tốc tốc giải
khai đồ trận.
(chiến trận...)
Trương Phi:
Cả khen trận rắn,
chưa mỏi mình rồng. Quyết nỗ lực giải khai, huy xà mâu đả phá.
Khổng
Minh:
Trương Phi! Ấy! Ngươi sa trận lẽ thời chẳng thứ đó. Nhưng mà
đương đề binh hạ lịnh truyền tha đó. Ta thụ quyền thụ chức quốc gia, đâu
có lẽ vị thân vị kỷ. (t.25)! Nói thiệt! Thuận phép min thời thứ, bằng
mà, nghịch mệnh mỗ chẳng dung. Ấy! Ai ai cũng tai nghe, người người đều
thấy mặt. Chư công lai thính lịnh. Tiên phong ấn phó, Triệu Tử đương
chi. Bạch Vị thủy tiến binh, thừa kinh tàng yếu lộ. Chúa công tập hậu,
quản nhị đạo hùng binh. Kíp thả chiến thả công, cơ mưu cho cẩn thận. Ấy!
Dụ gã vào nơi đất Vọng, phân tứ phương mai phục hỏa binh... Trương Phi!
Khá đem binh hữu dực, Vân Trường nghi lãnh tả chi. Nghe ta dặn: Ấy! Dụ
Hầu Đôn qua đất Vọng thành, khỏi (t.26) đó sẽ hỏa phần bắt gã. Chư quân!
Chư quân đều thính lịnh, chúng tướng khá cử binh. Còn phần ta cẩn thủ
bản doanh, Tôn Càn khá tiếp binh cho sẵn.
Trương Phi:
Vậy cũng
gọi điều binh khiển tướng, vậy cũng rằng lược trận đồ thành. Lão nầy
quỷ cha chả! Đánh vòng nọ không lo, thịt kia đà khỏi bẩy. Nước bắc lên
chửa nóng, bầu còn ở ngoài dàn. Cắc cớ thay giặc bắc đón nam, ngã ngớn
bấy hùm non vầy nội. Ba phen đà tuyết sương lặn lội, kiếm người về tá
quốc khuôn phò. Như lão này khi không xong (t.27) [Nói thiệt], chẳng làm
nên Trương nguyện bẻ giò, bằng thất trận Phi xin ăn thịt thôi!
Lưu
Bị:
Tam đệ còn táu tánh, hỡi nghịch mạng quân sư mà thôi! Ừ! Phá
trận đồ tội nọ mới tha, sa binh thế mà không biết hổ. Chúng tướng! Hạ
lịnh truyền bản bộ, khá tua chỉnh đao thương, kíp thẳng tới Ngụy thành,
đặng đem binh cự chiến.
***
Triệu
Tử:
Phò Lưu trào Hán thất, mỗ xưng Triệu Tử Long. Nay vâng lịnh chúa
công, dạy tôi ra nghinh tiếp. Dám phiền quan Đốc Tướng, xin rước lại
bổn (t.28) dinh. Trước là hiệp mặt Dã thành, sau ngõ ưu tư Hán thất. Dạy
tôi ra thông thuyết, còn người hỡi đi sau. Kìa quân sư lễ vật đem theo,
nọ Lưu chúa cũng đều nối gót.
Hầu Đôn:
Bất thính bất thính,
vô văn vô văn. Dĩ cam ngôn dụ ngã, bất úy nhĩ Triệu Vân.
(hai bên
đánh nhau)
lại nói:
Tiên phong gã Triệu Vân tẩu thoát rồi nè, tập
hậu xem Lưu Bị hỡi còn. Quân! Hạ lịnh dữ ngô binh, kíp sanh cầm Lưu Bị.
Mặt thấy Bị dường như mùi ngọt, nhìn Triệu Vân khác thể (t.29) miếng
ngon. Nguyện giết ngươi lấy đất Kinh Châu, bắt nhà gã về dâng Ngụy chúa.
Lưu
Phong:
Phụng lịnh mai phục, mỗ tự hiệu Lưu Phong. Kìa chúa công
Triệu Tử khỏi vòng, y kế nội truyền quân khởi hỏa.
Hầu Đôn:
Khổ
dã chân khổ dã, nguy nhiên thị nguy nhiên! Chẳng nghe lời Từ Thứ gián
ngôn, đà trúng kế Khổng Minh vây nội rồi! Thương hại: Bốn phía rần rần
lửa cháy, tám phương mịt mịt khói đen. Khôn thoát khỏi trùng vây, nhứt
thân tao lâm trận. Tôi biết lo mần răng chừ. Bát diện (t.30) quân reo tở
mở, tứ phương lửa cháy rần rần. Thác dư muôn đội hùng binh, Chừ thời ta
phải trở lại Bạch Hà Vị Thủy.
hát khách:
Đoạt lộ bôn ba tự điểu phi,
Đáo
lai Vị Thủy giải kỳ nguy.
Nhứt thân nan địch thiên viên tướng.
Vạn
đội hùng binh tận tử chi.
Quan Công:
Tả chi mai
phục, ngã hiệu Vân Trường. Hạ Hầu Đôn xuống đất không nanh, Tào Mạnh Đức
lên trời thiếu cánh.
Trương Phi:
Ngô đam binh hữu dực, ngã
hiệu viết Yên nhân. Hầu Đôn (t.31) ngươi chốn cũ khôn về, xà mâu kíp lấy
đầu nhà gã.
Hầu Đôn:
Ta cả khoe sức mạnh, hay đâu mắc kế cao.
Thương hại: Binh mười muôn bị chốn đau thương, tướng bốn đạo mắc nơi
tên pháo. Sau lưng thấy binh reo bát hướng, trước mặt nhìn tướng phủ tứ
phương. Giang Bắc quân thuyền rước mau mau, kíp đưa mỗ khỏi nơi tử địa.
Trương
Phi:
Nó đã khỏi miền Hà Vị, chốn Bạch Hà ta ắt khó theo. Truyền
chúng tướng thu quân, đặng hồi thành Tân Dã.
lại nói:
Bái tạ
bái tạ, quân sư, quân sư! Phi những nghĩ là kẻ sất phu, như trận thế
cũng đà đáng mặt. Dạ! Mỗ lạy quân sư đừng có chấp Phi. Bạch Hà thủy thây
trôi dường củi, đất Vọng thành chúng thác tựa mưa. Dám bẩm quân sư từ
nay sấp lên: Dầu quân sư người có ngủ trưa, thời Phi cũng đứng hầu ngoài
trướng.
Lưu Bị:
Có ra sức đá, mới biết tuổi vàng. Mất thịt nọ
không màng, thắng hùm kia rất toại. Rày an mối nước, thêm vững đạo nhà.
Chư tướng lại doanh gia, ta lui nơi ngọc
các.
Khổng Minh,
Quan Công, Trương Phi:
(t.33) Trước trừ an Bắc Ngụy, sau sẽ diệt Đông
Ngô. Chúc Nguyễn triều hạc toán thiên thu, dâng tuổi chúa hạ hồi phân
giải.
Nguyễn Văn Sâm phiên âm