của nhà
văn Nguyễn Văn Sâm.
Tổng phát hành: Nhà Sách
Văn Nghệ.
9351 Bolsa Avenue,
Westminster, CA 92683.
Năm xuất bản: 2000, Ấn
phí: 14 Mỹ kim.
Tôi vẫn thường cảm tạ
ông Trời đã rộng lượng ban cho tôi một số bạn hiền, và nay đang bước vào
lứa tuổi “nhĩ thuận” biết theo mệnh trời một cách ngoan ngoãn, tôi lại
càng thêm trân quý những người bạn hiền đó. Một trong những người bạn
này là nhà văn Nguyễn Văn Sâm, một người đồng niên, đồng nghiệp, và đồng
thanh khí của tôi. Trước 1975 ở Saigon, khi anh Sâm dạy Việt văn tại
Đại Học Văn Khoa thì tôi dạy Anh văn tại Đại Học Sư Phạm, chỉ nghe tiếng
nhau và ít khi gặp mặt. Năm 1979, khi nỗi nhớ quê hương còn canh cánh
bên lòng, tôi thực hạnh phúc được gặp lại anh Sâm tại San Antonio và
“mách nước” cho anh đôi điều trong buổi ban đầu anh đang hội nhập vào cuộc đời mới. Tôi vui mừng theo dõi sự thành công của anh trong hai thú vui thanh cao là dạy học
và viết văn nơi đất khách. Anh là người Nam, tôi là người Bắc di cư vào
Nam năm 1954, nhưng sự khác biệt quê quán chỉ làm tình bạn chúng tôi
thêm đậm đà.
Cốt nhà giáo, anh Sâm
chân phương lắm. Ngay tựa đề KHÓI SÓNG TRÊN SÔNG anh lựa cho tập truyện,
lấy ý trong câu chót của bài thơ Đường tráng lệ nhưng cũng buồn ngút
ngàn mang tên “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu, “Yên ba giang thượng sử
nhân sầu”, đã đủ cho người đọc biết rằng đây không phải là những đề tài
vui nhộn xem xong rồi bỏ, mà là những mẩu chuyện buồn rất thấm thía về
cuộc đời tại quê hương cũng như tại miền đất tạm dung mà có lẽ tất cả
chúng ta đều cảm thông được. Truyện nào cũng độc đáo, cũng để lại trong
tâm tư tôi một niềm ray rứt lạ kỳ, khiến tôi không thể không thử “đặt”
thân phận mình vào những trạng huống ấy xem sao, để rồi thấy mình may
mắn hơn người ta và nhìn cuộc đời dưới một ánh mắt tích cực hơn. Như số
phận của một chàng thanh niên què quặt, mặc cảm ngập trời về thân thể
của mình mà lại luôn luôn thèm khát xác thịt đàn bà, cuối cùng an phận
chịu lấy một phụ nữ đã mang bầu với kẻ khác (“Như Nước Trong Nguồn”).
Như nỗi đoạn trường trong biết bao gia đình tỵ nạn mưu sinh tối tăm mặt
mũi mà lại có cha mẹ già yếu đòi hỏi phải chăm sóc từng giây từng phút,
nhất là khi các cụ bị lú lẫn và không còn tự lo được chuyện vệ sinh thân
thể (“Mát Lạnh Tuổi Vàng”). Như sự ân hận to lớn và thành khẩn của một
người đàn ông Việt đã nghi ngờ và làm hại một ân nhân dị chủng của mình
(“Ông Già Noel Có Thật”). Như chuyện một thiếu nữ Việt tỵ nạn buồn chán
gia đình, giao du với một người đàn ông Mỹ bất hảo, bị hắn bỏ thuốc ngủ
vào nước uống rồi hiếp dâm (“Người Bí Mật Chiêm Ngưỡng”). Như tệ trạng
“gái bao” của các già dịch Việt kiều về nước (“Hương Cỏ”). Như ước mơ
được trở về với nếp sống quê cũ của chị gái và em trai sau khi đã chán
ngán mảnh đời tạm dung: chị thì bị hải tặc hãm hại trên đường vượt biên,
em trai thì bị cô vợ trẻ dị chủng đã có bầu cho mọc sừng (“Khói Sóng
Trên Sông”), vân vân. Nói theo ngôn ngữ phê bình văn học phương Tây, nhà
giáo kiêm nhà văn Nguyễn Văn Sâm đã dùng mô thức “mảnh đời” (“tranche
de vie”) để xây dựng cốt truyện, một mô thức mà Guy de Maupassant trong
văn học Pháp đã sử dụng tuyệt luân để nói lên những nỗi oái oăm, những
điều dị hợm trong cuộc sống thường nhật.
Là một nhà giáo văn chương đã nghiên cứu nhiều về truyện ngắn
quốc tế, anh Sâm rõ rệt đã nắm vững được những yếu tố cần thiết để thành
công trong loại văn chương này. Truyện nào của anh cũng được xây dựng
vững vàng, cũng có một cao điểm tức là lúc một sự thực-bất kể xấu hay
tốt -- được soi sáng, cũng đầy động tác trong lớp lang, cũng đầy những
tình tiết lý thú, khiến người đọc không bị hụt hẫng hoặc nhàm chán. Anh
Sâm không lập dị, không huyền bí, không làm dáng, không lãng mạn, nhưng
ngòi bút tả chân của anh thì khủng khiếp lắm mỗi khi anh thấy cần thiết
phải vung tay. Hãy nghe anh nói về nỗi chán chường của một phụ nữ đẹp
người đẹp nết mang tên Chuyên phải hầu bàn trong một tiệm ăn tại “Saigon
Nhỏ” bên California:“Những khuôn mặt mang nụ cười nham nhở. Những hàm răng cáu bợn
thức ăn. Những hơi thở nồng hơi bia xú với thực phẩm chưa kịp tiêu hóa,
tạo thành mùi cám heo lâu ngày, chuyển mùi. Chuyên muốn gạt phắt những
chúng sinh lô nhô chung quanh sang một bên để chạy mau về phòng mình nằm
sãi tay thở những hơi dài trút hết những ưu sầu, chán chường ra khỏi
tâm tư.” Hoặc đoạn anh cho người thanh niên
tật nguyền diễn tả nỗi mặc cảm của mình: “Chứng kiến tụi nó ỡm ờ trao tình bằng miệng hò mắt liếc, tôi
khoái lỗ tai thì có mà bằng bụng thì không. Tôi nhớ tới tấm thân tôi.
Con trai khi dễ coi như chẳng cùng loài cùng lứa, kiểu thằng Lai, thằng
Chệt nào lạc loài trong xóm. Con gái đi ngang qua không đứa nào cần biết
tôi đứng đó, đương có mặt, chúng ngó thẳng vô mặt tôi mà chẳng thấy mắc
cỡ bối rối, trong khi đó đối với mấy thằng khác cỡ tuổi tôi, mấy con
nhỏ này thường khi hành động kiểu như bị hớp hồn: quýnh quáng, tiếng
được tiếng mất, cà-lăm cà-lập, vuốt vuốt tóc, kéo kéo áo, đỏ mặt cúi đầu
ngó ngó xuống chưn ... thấy mà phát nực.”
Dấu ấn mô phạm của anh Sâm còn rõ lắm trong văn chương của anh,
như tôi đã ám chỉ ở trên. Anh chừng mực, anh khoan dung, anh gián tiếp
khuyên bảo người đời nên tránh điều ác (vì “ác giả ác báo”) và chấp nhận
cuộc đời, anh đề cao những cái đẹp quê hương mộc mạc, anh ngợi ca những
mẫu người đảm đang, tử tế (như Cô Út trong “Tình Đất” hoặc người con
dâu hiếu hạnh trong “Mát Lạnh Tuổi Vàng”). Phải chăng truyền thống “văn
dĩ tải đạo” đã thôi thúc anh viết lên hai truyện nặng phần “ngụ ngôn” là
“Ông Già Noel Có Thật” và “Biển Trời Lai Láng” trong tập truyện KHÓI
SÓNG TRÊN SÔNG?
Là một cá nhân thiết tha
học hỏi ngôn ngữ, tôi rất yêu tiếng Việt miền Nam. Và khi đọc văn của
anh Nguyễn Văn Sâm, tôi không khỏi ngầm so sánh anh với hai nhà văn
người Nam khác là Sơn Nam và Lê Xuyên mà tôi cũng ưa thích. Ngôn ngữ
“miệt vườn” của anh Sâm coi bộ ngộ nghĩnh và nhiều mầu sắc không thua gì
Sơn Nam trong “Hương Rừng Cà Mau” đâu. Và anh Sâm, có lẽ cũng vì gốc
nhà giáo chăng, không đi quá trớn như Lê Xuyên trong cái “ép-phê” làm
người đọc phải nóng ran người trong các đoạn văn khêu gợi dục tình. Quý
vị nào đã đọc “Chú Tư Cầu” hoặc “Rặng Trâm Bầu” của Lê Xuyên thì sẽ đồng
ý với tôi là Nguyễn Văn Sâm còn “nhẹ tay” lắm trong lãnh vực này. Cho
phép tôi đóng vai phân tích gia tâm lý “tài tử” một chút ở đây nhé. Khi
chúng ta sùng bái quá độ một vật gì hoặc một điều gì thì khoa tâm lý học
Tây phương gọi vật đó hoặc điều đó là một “fétiche” (tiếng Pháp) hoặc
“fetish” (tiếng Anh). Người Tàu dịch chữ đó là “ngẫu tượng” hoặc “linh
vật.” Đàn ông Mỹ thường hỏi đùa nhau, “Hey, what kind of man are you? A breast-man or a leg-man?” tức là họ muốn biết ngẫu tượng của nhau trong lãnh vực tình
dục: bộ ngực hay cặp giò. Qua tập truyện KHÓI SÓNG TRÊN SÔNG, tôi nghĩ
văn hữu Nguyễn Văn Sâm của chúng ta có một ngẫu tượng lồ lộ: đó là bộ
ngực nở nang của phụ nữ. Nói theo kiểu Mỹ, “he is definitely a breast-man.” Này nhé, trong truyện “Tình Đất” có
đoạn thằng Thìn nói về con Cúc như sau: “Con Cúc trổ mã cả năm nay, tay chưn tròn trịa, vú dậy đội lớp
áo lên cao nghệu dòm ngang thấy trơn láng mềm mềm ra vẻ con gái quá
chừng.” Rồi ở trong truyện “Như Nước Trong
Nguồn”, anh chàng tật nguyền mê con Nhàn, thú thực: “Ngồi trong nhà thấy nó thấp thoáng bên kia, ngực một ngực, lồ
lộ thiếu điều căng xé áo nhảy ra ngoài, tôi cũng đã cảm nhận nỗi vui vui
tràn ngập lòng, đời thiệt thòi như được trút bớt vài phân.” Chưa hết đâu, trong truyện “Ông Già Noel Có Thật”, một ông
Việt Nam mơ tưởng đến cái ngẫu tượng đó nơi một bà gốc Mỹ Châu La Tinh
như thế này mới khiếp chứ: “Và rồi tôi nhớ
tới hình dáng bờ ngực đầy đặn của Rachel. Bờ ngực có lần tôi bồm xôm tán
nhảm là bệ chưng thánh giá đẹp nhứt trần ai.”
So với cái ngẫu tượng nóng bỏng của anh Sâm trong KHÓI SÓNG
TRÊN SÔNG thì cái ngẫu tượng của tôi trong bài viết này hiền lành hơn
nhiều: tôi sẽ nói đến cái mức hấp dẫn của “ngôn ngữ miệt vườn” mà anh
Sâm sử dụng trong tập truyện. Thiên kiến này cũng dễ hiểu thôi, vì cả
đời tôi đã mê say ngôn ngữ, như đã nói ở trên. Tôi học trung học tại
Saigon và khoái chí đã học thêm được phương ngữ (dialect) Saigon. Tôi
thích nhất là các thành ngữ, các đặc ngữ trong Nam. Nghe khoái tai làm
sao, vừa tượng hình vừa tượng thanh, vừa chân chất chi lạ! Tôi thường so
sánh cách diễn tả thân mật (colloquial) giữa phương ngữ mẹ đẻ của tôi
(Hà Nội) và phương ngữ Saigon, dùng ngay một anh bạn thân rất dễ thương
người Nam cùng lớp để tra cứu và phối kiểm. Chẳng hạn, tôi hỏi anh diễn
tả từ ngữ “đi thọt chân” bằng tiếng Nam ra sao thì anh cười tươi và nói
là “đi cà thọt cà thọt”. Thế còn đi với giáng điệu nghiêng nghiêng thì
nói làm sao đây? Thì là “đi xà-niễng xà-niễng chớ sao.” Lớn bằng chừng
này này thì nói làm sao? Anh ra hiệu bằng hai bàn tay và nói gọn lỏn “bi
bự nè!” Có lần tôi đến nhà anh chơi, anh hỏi tôi muốn uống nước gì để
anh lấy. Tôi nói “cho mình một cốc nước chanh quả vắt.” Anh trả lời,
“cái đó trong Nam kêu là một ly đá chanh, sẽ có ngay cho bồ!” Và cứ như
vậy tôi học thêm và sử dụng ngay loại phương ngữ hấp dẫn ấy với các bạn
bè người Nam. Tôi tưởng tôi đã khá thành thạo, nhưng khi đọc KHÓI SÓNG
TRÊN SÔNG của anh Sâm thì tôi thấy còn phải học thêm nhiều. Tập truyện
của anh là cả một rừng thành ngữ bình dân, nghe lên thì khoái tai mà đọc
tới thì sướng mắt! Những thành ngữ này không thể tìm được trong tự điển
nào cả, nhưng may thay ngữ cảnh (context) của các đoạn văn đã giúp tôi
hiểu được ý nghĩa của chúng. Sau đây là một vài thí dụ điển hình. Trong
truyện “Theo Gót Huyền Trân” : “Trong mấy năm
chị nầy đập bầu liền xì bốc. Mang bầu lạch ạch cũng bò ra chợ, mới đẻ
hôm kia cũng te te đi bán, bỏ lún mấy đứa nhỏ ở nhà khóc lòi rún, mặt
mũi tèm lem tuốt luốt, sống chết phó thác cho trời khỏi cần cột niệt.” Trong truyện “Tình Lụy Thiên Thu”: “Mèo chuột, tò tí te thì mấy chị có con chuột Tàu trong bụng,
phải không ngoại?” Và trong “Tình Đất”: “Thét rồi nó tới chà-lết quết-xảm ở nhà tôi, gặp thì chỉ chào
sơ sơ rồi quay ra tíu ta tíu tít với con Út.”
KHÓI SÓNG TRÊN SÔNG là một thành công văn chương của một nhà
giáo kiêm nhà văn rất khả ái của chúng ta tại hải ngoại.
ĐÀM TRUNG PHÁP
Giáo sư Ngữ Học
Texas Woman’s University