Thăng Hoa Khả Năng Ngoại Ngữ Qua Thi Ca Trữ Tình
Hồi còn là sinh viên ban cử nhân chuyên về Anh ngữ tại Miami University thuộc tiểu bang Ohio trong đầu thập niên 1960, tôi có cơ hội học thêm một số ngoại ngữ trong phần học trình nhiệm ý. Tiến sĩ Glen Barr là vị giáo sư tiếng Tây ban nha tôi ngưỡng mộ nhất. Ông uyên bác, hiền lành, tận tụy, và rất quý mến học trò. Sau một thời gian học với ông, tôi được ông mướn làm người chấm (grader) bài tập của sinh viên theo học các lớp Tây ban nha ngữ nhập môn của ông. Mỗi cuối tuần, với nụ cười hiền hậu, ông trao tôi một món tiền căn cứ vào số bài tôi đã chấm dùm ông. Món tiền thường chỉ đủ để đưa cô bạn gái người Mỹ đi xi-nê một hai chầu là cạn, nhưng tôi rất cảm động và hãnh diện được ông thầy học tin cậy khả năng. Một hôm tôi hỏi ông: “Thầy ơi, có cách nào hấp dẫn hơn để trau giồi tiếng Tây ban nha, ngoài việc học thuộc lòng các quy luật văn phạm và từ vựng buồn tẻ không?” Ông gật gù, có vẻ thích thú câu hỏi của tôi, rồi ông hỏi lại tôi: “Anh có thích thơ và nhạc không?” Thấy tôi gật đầu lia lịa, ông nói tiếp: “Vậy thì hãy thử tìm đọc thơ của Gustavo Adolfo Bécker, và nghe những bài hát do Trio los Panchos trình diễn đi!” Ông thầy chí tình của tôi còn quả quyết là qua thơ và nhạc, tôi sẽ thích tiếng Tây ban nha hơn, biết thêm từ vựng văn học, hiểu thêm nếp sống tình cảm của người dân Tây ban nha và Mỹ châu la-tinh, và nhất là sẽ thăng hoa khả năng phát âm và khả năng nghe hiểu thứ tiếng này. Ông vỗ vai tôi, nói tiếp trước khi tôi rời văn phòng ông: “Tin tôi đi, vì đó là kinh nghiệm bản thân của tôi mà!” Tôi không thể ngờ là giáo sư Barr đã cho tôi một lời khuyên vô giá. Ông quả là một nhà giáo ngoại ngữ tinh đời mà tôi có diễm phúc được làm học trò. Rời văn phòng ông, tôi vội ghé thư viện của trường để mượn một cuốn hợp tuyển dầy cộm về văn học Tây ban nha trong đó có thơ của đại danh Gustavo Adolfo Bécker và các thi nhân lẫy lừng khác. Tôi cũng vào một tiệm âm nhạc ở ngoài phố để mua một đĩa hát của ban tam ca Trio los Panchos rất được ưa chuộng thời ấy, bìa in hình ba chàng ca sĩ để râu mép như Clark Gable, đội mũ rộng vành, tay ôm đàn điệu nghệ. Chỉ tiếc là cái album đĩa hát thuộc loại “long-playing” ấy của nhà sản xuất Columbia không có đính kèm bản văn (lyrics) của các bài hát, nhưng đây lại là một điều tốt cho tôi, như sẽ giải thích dưới đây. Gustavo Adolfo Bécker (1836-1870), một nhà thơ tài hoa nhưng mệnh yểu thuộc trào lưu hậu lãng mạn, đã chinh phục ngay được lòng mến mộ của tôi qua một số bài thơ trữ tình trong tuyển tập RIMAS của ông. Thi tuyển này gồm 98 bài --có bài rất ngắn nhưng cũng có bài khá dài, tổng cộng thành vài ngàn câu thơ trác tuyệt-- đóng vai trò quan trọng trong văn học Tây ban nha và nằm trong học trình trung học của các quốc gia nói thứ tiếng này. Sau tuyệt tác này, Bécker được coi như người đã sáng lập ra trường phái “trữ tình mới” của văn học Tây ban nha, ảnh hưởng trực tiếp đến các đại danh thi ca như Octavio Paz và Rubén Darío. Nét trữ tình ngọt ngào và chân thành của nhà thơ nổi bật trước sự bộc phát của tình yêu và nỗi cô quạnh của thiên nhiên, khiến người đọc mủi lòng và thấm thía đến nỗi phải đọc đi đọc lại đoạn thơ hay cả bài thơ liên hệ ấy cho đến khi nhập tâm mới thôi. Nhưng Nàng Thơ của thi tập RIMAS là ai ? Thưa, đó là nàng Elisa Guillén, một kiều nữ mà nhà thơ mê say nhưng duyên không thành, trước khi ông đành kết hôn với cô Casta Esteban Navarro trong một cuộc tình duyên thiếu hạnh phúc. Trau giồi tiếng Tây ban nha qua thi tập RIMAS trữ tình của Bécker và qua những bài hát mùi mẫn của ban tam ca Trio los Panchos bỗng chốc trở thành niềm đam mê mới của tôi! Xin nói về thơ trước. Mỗi chiều sau khi xong bài vở các môn học khác, tôi ngồi hàng giờ để đọc và … học thuộc lòng thơ Bécker! Ngay bữa đầu tôi đã bị quyến rũ bởi RIMA XXI, RIMA XXII, và RIMA XXIII là ba bài thơ tình rực rỡ mà ý nghĩa đã khiến tôi ngồi mơ mộng, ước chi mình là người thi sĩ diễm phúc ấy! Này nhé, chàng có một cô bạn gái xinh như mộng đang mê chàng như điếu đổ. Một hôm nàng âu yếm nhìn chàng thật lâu rồi nhõng nhẽo hỏi: “Thơ là cái chi mà anh mê nó thế hả anh?” Sự bộc phát của tình yêu đã khiến nhà thơ thốt ra câu trả lời nổi tiếng nhất trong thi ca trữ tình thế giới: “Thơ … là em đấy!” Thi nhân cũng chẳng để lỡ cơ hội cho tiếng lòng đang thổn thức rót thêm những lời đường mật vào tai cô bạn gái mà chàng vừa tấn phong làm Nàng Thơ. Xin mời quý bạn đọc thưởng lãm tiếng thơ nguyên tác của Bécker trong ba bài vừa kể và miễn chấp phần vụng về cố gắng dịch sát ý nghĩa sang tiếng Việt của tôi theo sau: ¿QUÉ ES POESÍA? DICES, MIENTRAS CLAVAS EN MI PUPILA AZUL. ¿QUÉ ES POESÍA ? Y TÚ ME LO PREGUNTAS ? POESÍA … ERES TÚ. Thơ là cái chi ? Em hỏi, khi mắt em soi thẳm mắt xanh anh. Thơ là cái chi ? Em hỏi anh như vậy ? Thơ … là em đấy. ¿CÓMO VIVE ESA ROSA QUE HAS PRENDIDO JUNTO A TU CORAZÓN ? NUNCA HASTA AHORA CONTEMPLE EN LA TIERRA SOBRE EL VOLCÁN LA FLOR. Bông hồng cài sát bên tim em sao sống nổi ? Xưa nay trên đời chưa ai thấy bông hoa nào trên hỏa diệm sơn. POR UNA MIRADA, UN MUNDO, POR UNA SONRISA, UN CIELO, POR UN BESO… ¡ YO NO SÉ QUE TE DIERA POR UN BESO ! Một thế giới cho từng ánh mắt, Một bầu trời cho mỗi mỉm cười, Riêng mỗi nụ hôn … anh chẳng biết Tặng em gì cho mỗi nụ hôn ! Ý tứ rạt rào đam mê, ngôn ngữ bình dị như lời nói chuyện, cú pháp đơn sơ ở mức tối đa trong những câu thơ trên khiến chúng trở nên vô cùng hấp dẫn và dễ thuộc lòng. Và thuộc lòng những câu thơ mà mình thống khoái có nhiều lợi điểm lắm. Nào là từ vựng, nào là cách chấm câu, nào là các mẫu cú pháp, tất cả đã được ghi nhớ vào trí óc để sẵn sàng mang ra sử dụng khi cần thiết. Tôi mê các câu POESÍA … ERES TÚ / POR UNA MIRADA, UN MUNDO/ POR UNA SONRISA, UN CIELO cho nên đã dùng chúng làm các câu mẫu để viết ra các câu tương tự như MI MUSA … ERES TÚ (Nàng Thơ của anh … là em đấy), POR UNA CARICIA, UN YATE (Một du thuyền cho mỗi vuốt ve), và POR UN ABRAZO, UN CASTILLO (Một lâu đài cho từng ôm ấp). Thú thực, lúc đó đam mê tình ái của nhà thơ đã lây sang tôi, và tôi thấy thi ngữ của Bécker ngon như những viên kẹo dragées ! Nhưng không phải bài thơ nào của Bécker cũng hạnh phúc đâu. Khi đọc xong RIMA LIII lòng tôi chùng xuống như thể bị thất tình, vì hành vi những con chim én trong bài thơ não nùng ấy được dùng làm biểu tượng cho lòng sầu muộn và nỗi lo âu của một cuộc tình vừa tan vỡ : VOLVERÁN LAS OSCURAS GOLONDRINAS EN TU BALCÓN SUS NIDOS A COLGAR. Y OTRA VEZ CON EL ALA A SUS CRISTALES, JUGANDO LLAMARÁN. Những con én đen đúa sẽ trở lại xây tổ trên mái hiên nhà em. Và lần nữa, vỗ cánh trên cửa sổ chúng vui chơi và sẽ gọi tên. PERO AQUELLAS QUE EL VUELO REFRENABAN TU HERMOSURA Y MI DICHA A CONTEMPLAR, AQUELLAS QUE APRENDIERON NUESTROS NOMBRES, ¡ESAS … NO VOLVERÁN ! Nhưng những con từng bay chậm lại để ngắm nhìn nhan sắc em và hạnh phúc anh, Những con đã biết gọi tên chúng mình, Những con ấy … sẽ không trở lại ! RIMA LIII chứa đựng nhiều từ vựng quan trọng trong thi ngữ Tây ban nha, nhưng đáng kể hơn nữa là những câu thơ trác tuyệt trong bài là điều nhắc nhở người đang học rằng thứ tự các từ ngữ (word order) trong cú pháp Tây ban nha rất linh động, chẳng hạn ngay trong câu đầu tiên, động từ VOLVERÁN được đặt trước chủ từ LAS OSCURAS GOLONDRINAS, và trong câu thứ năm túc từ trực tiếp EL VUELO được đặt trước động từ REFRENABAN. Nếu so với thơ về mức hấp dẫn để thăng tiến khả năng ngoại ngữ thì nhạc “ăn đứt” thơ vì nhạc có thêm chiều (dimension) âm thanh. Mỗi bài hát, ngoài từ vựng và cú pháp gửi gấm trong những lời ca, còn là một mẫu mực cho phát âm (pronunciation) và các mô hình ngữ điệu (intonation patterns), cũng như một thực tập để nghe hiểu (listening comprehension). Ba bài hát SOLAMENTE UNA VEZ, PERFIDIA, và BÉSAME MUCHO do Trio los Panchos trình diễn mùi mẫn trong điệu bolero chầm chậm đã làm tôi mê ngay lúc nghe lần đầu, mặc dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa những câu hát vì tôi không có văn bản (lyrics) trước mắt. Tôi quyết định phải nghe đi nghe lại ba bài hát ấy cho đến khi thuộc lòng, rồi ngồi xuống, với cuốn tự điển Tây ban nha nho nhỏ trong tay để giúp phần tra cứu chính tả (spelling), viết ra giấy những gì tôi đã ghi trong trí nhớ. Nỗ lực ấy là một lối thực tập tự viết chính tả thú vị, và sau một hai tiếng đồng hồ, tôi đã có văn bản của ba bài ca bất hủ! Khả năng nghe hiểu (listening comprehension) cũng rõ rệt được thăng hoa khi tôi chăm chú mê say nghe những lời ca của Trio los Panchos. Âm điệu (melody) ngọt ngào êm tai hòa với nhịp điệu (rhythm) lên xuống rộn ràng của các bài hát như có ma lực giúp tôi mau chóng thuộc lòng những lời ca chứa chan cảm xúc mạnh của chúng. Nói về cảm xúc mạnh thì ba bài hát nêu trên thuộc loại thượng thừa! Nghe xong bài SOLAMENTE UNA VEZ tôi thắc mắc hoài về người trong cuộc. Tại sao chỉ một lần yêu thôi? Lý do nào tan vỡ? Ly dị, chết chóc, hay chỉ vì người ta thay lòng đổi dạ? Mời quý bạn đọc nghe niềm tiếc nuối ngút ngàn của tác giả bài ca này: SOLAMENTE UNA VEZ Chỉ một lần thôi tôi đã yêu trong đời ; chỉ một lần thôi, rồi không còn chi nữa.
Chỉ một lần thôi tia hy vọng rực sáng trong mảnh vườn tôi, tia hy vọng soi con đường cô độc cả cuộc đời. Chỉ một lần thôi tâm hồn tôi hàng phục sự buông lơi trọn vẹn ngọt ngào. Và khi phép lạ ấy mang lại ái ân kỳ diệu, bao tiếng chuông đình đám rộn ràng cùng ca hát trong tim. Tôi thấy tội nghiệp vô cùng cho tác giả bài hát PERFIDIA. Đau sót biết mấy khi có người yêu điên đảo ! Nhạc sĩ thất tình với trái tim rớm máu này thở than về một phụ nữ đã làm cho đời ông tan nát. Ông mang cả Thượng Đế, cả biển sâu ra làm nhân chứng cho mối tình thành khẩn, cho những lần than khóc, cho những chuyến đi tìm kiếm vô vọng của ông – tất cả chỉ vì sự đảo điên, đi hoang của nàng thôi : MUJER, SI PUEDES CON DIOS HABLAR, PREGÚNTALE SI YO ALGUNA VEZ TE HE DEJADO DE ADORAR. Y AL MAR, ESPEJO DE MI CORAZÓN, LAS VECES QUE ME HA VISTO LLORAR LA PERFIDIA DE TU AMOR. Em, nếu có thể thưa chuyện cùng Thượng Đế, hãy hỏi Ngài xem anh đã dám lần nào chểnh mảng tôn thờ em. Và hỏi biển, gương soi trái tim anh, những lần biển đã thấy anh nhòa lệ khóc cho đảo điên tình ái của em. TE HE BUSCADO DONDEQUIERA, YO NO TE PUEDO HALLAR. Y TÚ, QUIÉN SABE POR DÓNDE ANDARÁS, QUIÉN SABE QUÉ AVENTURAS TENDRÁS, QUÉ LEJOS ESTÁS DE MÍ. Anh đã đi tìm em khắp chốn, mà nào thấy bóng dáng em đâu. Còn em, ai biết em đi phương nào, ai biết em mạo hiểm tình ái ra sao, khi em xa cách anh biết mấy. May thay, những tiếc nuối trong bài SOLAMENTE UNA VEZ và những nát lòng trong bài PERFIDIA được đền bù rộng rãi bằng những đam mê trong bài BÉSAME MUCHO do nữ nhạc sĩ Mễ tây cơ Consuelo Velázquez sáng tác năm 1940. Điều đáng ngạc nhiên về tác giả bài hát thúc dục hôn nhau thắm thiết nổi tiếng thế giới này là sự kiện cô ta, cho tới lúc ấy, chưa bao giờ được ai hôn cả. Cô phải bạo phổi lắm, vì ở thời điểm đó bên Mễ tây cơ, hôn nhau say đắm theo kiểu cô ta đề nghị vào ban đêm thì chắc chắn bị coi như … tội lỗi rồi ! Cả thế giới biết đến bài hát này mà dưới đây là hai đoạn chính của nội dung nguyên tác ; đoạn thứ nhất được nhắc lại ở cuối bài hát như một điệp khúc khi trình diễn. Vì tác giả thuộc phái đẹp, trong phần chuyển ngữ tôi để nàng làm người thúc dục động tác hôn nhau : BÉSAME, BÉSAME MUCHO, Hôn em đi, hôn em đi thật say đắm, như thể là lần chót trong đêm nay. Hôn em đi, hôn em đi thật say đắm. Em sợ biết bao sẽ mất anh, mất anh sau này. Em muốn có anh thật gần, soi bóng em trong mắt anh, thấy anh sát bên em. Anh hãy nghĩ mai đây có thể Em sẽ đi xa, hàng vạn dặm xa anh. Mấy chục năm đã qua đi, nhưng kỳ diệu thay những bài thơ tình trinh nguyên của Bécker, những bài hát do Trio los Panchos trình bầy mùi mẫn mà tôi học thuộc lòng trong tuổi thanh xuân, ngày nay tôi vẫn chưa quên! Tôi vẫn còn giữ thói quen đọc thơ và nghe nhạc Tây ban nha trong lúc nhàn rỗi để thăng hoa khả năng thứ tiếng ấy. Mới đây thôi, tôi đọc một bài thơ tuyệt đẹp của Pablo Neruda (1904-1973) từng đoạt giải Nobel văn chương. Đó là bài LA REINA (Nữ Hoàng) mà thi bá gốc người xứ Chí lợi viết để tặng Nàng Thơ bằng da bằng thịt của mình mang tên Matilde Urrutia. Nàng thua ông 8 tuổi, yêu kiều, tràn đầy nhựa sống, tính tình nồng thắm, hát như chim sơn ca, và chơi dương cầm thiện nghệ. Hai đoạn thơ long trời lở đất trong bài LA REINA sau đây cho người đọc biết tại sao nàng được ông tôn là Nữ Hoàng: Y CUANDO ASOMAS SUENAN TODOS LOS RÍOS EN MI CUERPO, SACUDEN EL CIELO LAS CAMPANAS, Y UN HIMNO LLENA EL MUNDO. Và khi em xuất hiện tất cả những giòng sông náo động trong thân anh, những hồi chuông rung chuyển cả bầu trời, và một bài thánh ca ngập tràn thế giới. SÓLO TÚ Y YO, SÓLO TÚ Y YO, AMOR MÍO, LO ESCUCHAMOS. Chỉ có em và anh, em yêu ơi, chỉ có em và anh lắng nghe bài thánh ca ấy. Và trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh vừa qua, tôi lên Internet tìm lại được bài SOLAMENTE UNA VEZ là bài hát tôi yêu mến nhất! Kỹ thuật ngày nay cho âm nhạc thêm một chiều nữa, đó là hình ảnh sống động đi kèm. Tôi nghe và xem hình hai giọng ca vàng Julio Iglesias gốc Tây ban nha và cô Thalía sắc nước hương trời, đệ nhất đào thương telenovela xứ Mễ tây cơ, song ca trong một youtube. Từ trước đến nay, tôi chưa thấy ai hát SOLAMENTE UNA VEZ ngọt ngào đến mê hồn như họ! Bao kỷ niệm thời thanh xuân vụt trở lại, và tôi, nước mắt tiếc nuối lưng tròng, thầm đọc mấy câu thấm thía của Rubén Darío (1867-1916): JUVENTUD, DIVINO TESORO, YA TE VAS PARA NO VOLVER! CUANDO QUIERO LLORAR, NO LLORO … Y A VECES LLORO SIN QUERER … Tuổi thanh xuân, kho tàng thần thánh, đã ra đi để chẳng trở về ! Lúc muốn khóc nào đâu khóc nổi .. nhưng nhiều khi bất chợt lệ rơi …
[Trích từ tập Hoài Niệm Giáo Dục của Đàm Trung Pháp]
|